Lê Thị Lựu – Tiểu Sử Cuộc Đời, Sự Nghiệp & Tác Phẩm

Hoạ Sĩ Lê Thị Lựu 19 tháng 1 năm 1911 – 6 tháng 6 năm 1988)

Lê Thị Lựu (ngày 19 tháng 1 năm 1911 – ngày 6 tháng 6 năm 1988) là một họa sĩ chuyên về tranh lụa và tranh sơn dầu. Bà được coi là nữ họa sĩ đầu tiên của nghệ thuật hiện đại tại Việt Nam, và là một trong bốn danh họa nổi tiếng tại Pháp Phổ – Thứ – Lựu – Đàm. Trong thời kỳ mà nghệ thuật Việt Nam vẫn chủ yếu là sân chơi của nam giới, Lê Thị Lựu đã trở thành một biểu tượng nghệ thuật nữ đầu tiên của đất nước. Bên cạnh sự nghiệp hội họa, bà còn là nhà thơ và một nhà văn tài năng.

Tiểu Sử Cuộc Đời Danh Họa Lê Thị Lựu

Lê Thị Lựu sinh vào ngày 19 tháng 1 năm 1911 tại làng Thổ Khối, Bắc Ninh. Đây còn là quê hương của cả cha và mẹ bà. Cả cha mẹ của Lê Thị Lựu đều mang họ là Quế: cha là Lê Văn Quế và mẹ là Lê Thị Quế.
Từ nhỏ cho đến khi 14 tuổi, Lê Thị Lựu luôn đi theo cha là một công chức tòa sứ đến nhiều tỉnh thành khác nhau như Bắc Ninh, Nam Định, Thái Bình, Hải Phòng và Hà Nội. Cha của Lê Thị Lựu là một trong những người đầu tiên theo phong cách Tây hóa, cùng với những người như nhà báo Nguyễn Văn Vĩnh, nhà báo Ngô Văn Phú và Viện trưởng Viện Dân biểu Bắc Kỳ Phạm Huy Lục. Mặc dù vậy, ông vẫn bắt con cái phải để tóc dài, nhuộm răng đen và mặc quần áo truyền thống cho đến khi họ lấy chồng.
Lê Thị Lựu là chị cả trong số bốn chị em gồm Lê Thị Lựu, Lê Thị Cẩn, Lê Thị Chương và Lê Thị Đào, được cha mẹ đặt tên theo các loại cây thảo mộc: Lựu, Cẩn (cây bầu), Chương (cây long não), Đào. Bà cũng có những người em họ nổi tiếng như giáo sư Nguyễn Đăng Thục, nhà văn Mai Thảo và nhà phê bình Nguyễn Đăng Mạnh.

Lê Thị Lựu sinh ra trong một gia đình theo trường phái Tây hóa. Ngay từ khi còn ở cấp sơ học, niềm đam mê với hội họa đã bắt đầu xuất hiện trong bà. Vào năm 1925, tuy đậu bằng Sơ học yếu lược, nhưng bà lại không theo học tại trường Nữ sinh Đồng Khánh (trước đây là trường Trưng Vương) như em của mình, năm 1926 bà quyết tâm thi vào trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương.
Trước kỳ thi, bà đã mua cuốn vẽ luật viễn cận và tự ôn luyện, đồng thời nhờ một người anh họ tên Pheo làm người mẫu để luyện tập. Kết thúc kỳ thi, bà đỗ thứ 13 và được ghi tên vào lớp dự bị do trường chỉ nhận 10 sinh viên.
Theo những nhật ký của Lê Thị Lựu, hai sự kiện này đã góp phần quan trọng vào quyết định của bà: lần đầu tiên khi Lựu đang sắp xếp tài liệu cho thầy giáo, bà bị ấn tượng bởi một bức hình vẽ một cô gái Lào đẹp; sau đó, thầy giáo đã giải thích đó là một bức hình “phóng to” từ sách. Khi Lựu hỏi thầy giáo liệu có thể học được môn này không, ông đã giới thiệu một Trường Bách nghệ dạy vẽ, nơi có một nghệ sĩ tên Thục nặn giỏi. Sự kiện thứ hai là khi thăm người bạn có bố là chủ một rạp hát, Lê Thị Lựu được thuyết phục bởi cách vẽ chấm phá làm phông cho rạp của một thợ làm phông, bằng việc tô lên những nét sơn nguệch ngoạc trên tấm vải căng phẳng, tạo nên hiệu ứng mà khi nhìn gần không nhận ra gì cả, nhưng từ xa thì trông rất đẹp.

Mặc dù chỉ năm 1927, Lê Thị Lựu đã đỗ nhất đầu vào khóa III trường Mỹ thuật Đông Dương, khi ấy bà chỉ mới 16 tuổi, cùng với Trần Quang Trân và Nguyễn Gia Trí.
Sau đó, bà nhanh chóng nổi tiếng thông qua hai bức tranh sơn dầu được trưng bày trong triển lãm chung đầu tiên của trường, “1929 Thiếu nhi trong vườn chuối” và “Chân dung Ông Hai”. Cả hai bức tranh này đều nhận được sự khen ngợi từ các giáo sư Victor Tardieu và Joseph Inguimberty.. Mặc dù còn đang là sinh viên, Lê Thị Lựu đã đóng góp với hai bức tranh sơn dầu trong triển lãm tranh đầu tiên của trường: “Chân dung Ông Hai” và “1929 Thiếu nhi trong vườn chuối”.
Theo ông Ngô Thế Tân, Lê Thị Lựu lớn lên trong một gia đình theo đạo Nho giáo. Vì vậy, khi còn là sinh viên, bà đã phải đối mặt với nhiều khó khăn khi phải vẽ người đàn ông khoả thân. Khi tham gia vào lĩnh vực của nam giới, bà thường vướng phải sự ghen tị từ các bạn nam trong lớp. Họ thậm chí còn tấn công tranh của bà bằng cách sử dụng dao rạch hoặc bôi xóa.
Tuy nhiên, với nỗ lực không ngừng, Lê Thị Lựu vẫn tốt nghiệp với tư cách thủ khoa và trở thành giáo sư tại nhiều trường có uy tín như Trường Bưởi, Trường Hàng Bái (Hà Nội) và Trường Mỹ Thuật Gia Định (Sài Gòn). Bà thường xuyên được các tờ báo trong nước nhắc tới.

Năm 1932, Lê Thị Lựu trở thành nữ họa sĩ đầu tiên tốt nghiệp trường Mỹ thuật với hạng thủ khoa. Các tác phẩm chính của bà trong giai đoạn này chủ yếu là tranh sơn dầu, với điểm mạnh là chân dung. Sau khi tốt nghiệp, bà nhanh chóng nhận được sự công nhận từ giới báo chí, đặc biệt là từ nhóm Tự Lực văn đoàn.
Lê Thị Lựu cũng được bổ nhiệm làm giáo sư tại nhiều trường học khác nhau trên khắp cả nước. Bên cạnh đó, với vai trò là hướng đạo sinh, bà còn là người sáng lập tổ chức “Bầy sói con Trứng Rồng”.

Năm 1940, cùng với chồng là Ngô Thế Tân, nữ họa sĩ Lê Thị Lựu đã chuyển đến Pháp.
Ở Pháp, cuộc sống gia đình của Lê Thị Lựu gặp nhiều khó khăn, dẫn đến việc bà phải tạm ngưng sự nghiệp hội họa suốt một thời gian dài, từ những năm 1930 đến những năm 1950, trừ một số tác phẩm được sáng tác vào các dịp đặc biệt. Trong thời gian này, bà tích cực tham gia vào phong trào chống Pháp trong bối cảnh cách mạng đang diễn ra sôi động.

Sau khi quay trở lại với nghệ thuật, Lê Thị Lựu tập trung vào việc thực hiện tranh lụa và kiên định theo trường phái cổ điển. Công trình của bà thu hút sự chú ý từ các triển lãm và cửa hàng tranh tại Pháp: ba bức tranh lụa nhỏ của Lựu, trong thời kỳ sáng tác ban đầu, đã đem về cho bà giải nhất và được công nhận là thành viên chính thức của Hội liên hiệp phụ nữ hội họa và điêu khắc Pháp.
Trong những năm cuối đời, Lê Thị Lựu đã sáng tạo nhiều tác phẩm thành công, để lại dấu ấn trong sự nghiệp của mình. Bức tranh cuối cùng mà bà hoàn thiện trước khi qua đời là bức “Tam đại đồng đường”.

Sự Nghiệp Nữ Họa Sĩ Tài Ba Lê Thị Lựu

1927–1940: Khởi đầu hội họa và sang Pháp

Tranh Biếm Họa Của Lê Thị Lựu (1)
Tranh biếm họa của Lê Thị Lựu vẽ dịp tốt nghiệp thủ khoa cho tờ Phụ nữ tân văn, bên phải là hình chân dung và thông tin tóm tắt về bà

 

Năm 1929, trong thời gian Lê Thị Lựu vẫn còn là sinh viên tại Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, nhà trường đã lên kế hoạch tổ chức triển lãm chung đầu tiên, trưng bày các bài tập của sinh viên sáng tác trong thời gian nghỉ hè và yêu cầu phải trình bày công việc với giáo viên khi quay lại trường.

Tuy nhiên, cho đến ngày khai giảng, Lê Thị Lựu chỉ mới hoàn thiện được một bức tranh sơn dầu mang tên “Thiếu nhi trong vườn chuối”. Chỉ một giờ trước khi trở về trường, bà đã kịp nhờ ông bác của mình làm mẫu chân dung và mang bức tranh còn ướt màu lên xe, đặt tên là “Chân dung Ông Hai”.

Bất ngờ khi nộp bài, vào ngày triển lãm vào ngày 15 tháng 11 cùng năm, sau vài phút thuyết trình về hai tác phẩm, hai người đã mua các tranh này với giá tổng là 400 đồng, gấp nhiều lần tiền thuê trọ của Lê Thị Lựu, chỉ vỏn vẹn 3 đồng. Hai tác phẩm này nhận được sự khen ngợi từ giáo sư Joseph Inguimberty và hiệu trưởng Victor Tardieu; thậm chí, “Chân dung Ông Hai” còn được thầy Inguimberty xếp ngang hàng với các tác phẩm của họa sĩ Tô Ngọc Vân, một trong những họa sĩ hàng đầu của thời đó.

Năm 1931, Lê Thị Lựu cùng các họa sĩ khác trong trường, dẫn đầu bởi Lê Phổ, tham dự Triển lãm Thuộc địa tổ chức tại Paris. Các tác phẩm của bà đã thu hút sự chú ý của các nhà phê bình nghệ thuật Pháp.

Năm 1932, sau khi tốt nghiệp, tên tuổi của Lê Thị Lựu trở nên nổi tiếng trên toàn quốc, được nhiều tờ báo trong nước nhắc đến như là nữ sinh đầu tiên tốt nghiệp thủ khoa khóa III của Cao đẳng Mỹ thuật. Tài năng của bà cũng được nhóm Tự Lực văn đoàn công nhận. Trong bài viết “Trường Mỹ thuật Đông Pháp” của Nguyễn Tường Tam (bút danh Nhất Linh), ông đã xếp Lê Thị Lựu là một trong ba họa sĩ tài năng nhất về sơn dầu của trường Mỹ thuật Đông Dương, cùng với Lê Phổ và Nam Sơn.

Tại một Triển lãm Thuộc địa ở Paris vào năm 1933, Lê Thị Lựu đã trưng bày các tác phẩm tranh lụa và tranh sơn dầu của bà, trong đó có “Đế Thiên Đế Thích cùng người ăn mày” và một bức khác mang tên “Người và vật”. Trước đó, những tác phẩm này đã được trưng bày tại Triển lãm Phụ nữ tân văn 1932. Từ năm 1933 đến 1935, theo quy định thời điểm đó, bà được bổ nhiệm giảng dạy tại các trường Trung học Bảo hộ (sau này là trường Bưởi), trường Nữ sinh Đồng Khánh và trường tư thục Hồng Bàng ở Hà Nội.
Với vai trò là một hướng đạo sinh, Lê Thị Lựu tham gia vào Trại họp bạn Hướng đạo toàn quốc tại Sân vận động Mayer, Sài Gòn. Bà đã sáng tạo chân dung ông Robert Baden-Powell bằng cách sử dụng năm loại hạt ngũ cốc và tham gia vào việc thiết kế mẫu huy hiệu “Hướng đạo Việt Nam”, sử dụng biểu tượng được tạo hình từ hoa sen, là một trong những huy hiệu chính thức của tổ chức này.
Năm 1933 và 1934, nhằm truyền đạt tư tưởng tiến bộ và khuyến khích thanh thiếu niên tham gia vào mọi hoàn cảnh trong cuộc sống, bà cùng với nữ giáo sư trung học Chenevier đã tạo ra tổ chức “Bầy sói con Trứng Rồng”.

Lê Thị Lựu trong thời gian tại Sài Gòn năm 1936
Lê Thị Lựu trong thời gian tại Sài Gòn năm 1936

Trong giai đoạn 1935-1936, Lê Thị Lựu chuyển đến Nam, giảng dạy tại trường Nữ sinh Áo tím ở Sài Gòn (hiện là Trường Trung học phổ thông Nguyễn Thị Minh Khai) và trường Mỹ nghệ & Trang trí Gia Định. Ngoài công việc chính, bà còn hợp tác với các ấn phẩm của Tự Lực văn đoàn như Ngày Nay, Phụ nữ tân văn, Đàn bà Mới, sử dụng bút hiệu Văn Đỏ dưới ký họa hoặc hình vẽ; và cũng viết thơ, dù không nhiều, dưới bút danh Thạch Ẩn, do một nhà sư đặt cho.

Trong những năm 1937 hoặc 1938-1939, nữ họa sĩ đã di chuyển đến Hà Nội để giảng dạy tại trường Trung học Bảo hộ và Đăng Ten. Năm 1939, cùng với Tô Ngọc Vân, Lê Thị Lựu tham gia vào “Nhóm kịch Thế Lữ” với vai trò trang trí các vở diễn, gây được sự chú ý từ công chúng.
Trong khoảng thời gian này, ba người bạn của bà là Mai Thứ, Lê Phổ và Cao Đàm đều đã chuyển đến định cư tại Pháp, trong bối cảnh một số họa sĩ muốn đến Pháp để tiếp xúc với trường phái Paris, và Lê Thị Lựu cũng không phải là ngoại lệ. Vào tháng 3 năm 1940, cùng với chồng là ông Ngô Thế Tân, bà đã rời Sài Gòn và đi sang Pháp bằng đường thủy; chồng bà là một công chức chính quyền được thuyên chuyển sang Pháp để làm việc cho Ban kỹ thuật Canh nông Nhiệt đới, thay cho các đồng nghiệp Pháp đã nhập ngũ tham gia vào chiến tranh.

1940–1960: Đóng góp với cách mạng và sự trở lại với hội họa

Sau khi tàu cập bến cảng Marseille, Pháp vào tháng 4 năm 1940, trong tháng 6 cùng năm, Lê Thị Lựu và chồng đã đến Paris. Tuy nhiên, khi đến đó, họ phải đối mặt với việc thành phố bị Đức ném bom. Hai người dự định thăm xưởng vẽ ở Paris của ba người bạn họa sĩ Vũ Cao Đàm, Lê Phổ và Mai Trung Thứ, nhưng khi tới, họ phát hiện rằng cả ba đều phải nhập ngũ.
Sau một thời gian sống ở Nantes rồi trở lại Paris, đối mặt với cuộc sống khó khăn và thiếu thốn, đến tháng 6 năm 1941, Lựu đã sinh con. Gia đình bà đã cố gắng đi đón tàu về nước, nhưng không may lại không có tàu nào do tình hình chiến tranh. Vì vậy, họ đã di chuyển về Nice và sống chung với Lê Phổ, người đã giải ngũ vào thời điểm đó. Sau đó, họ tìm khu trọ tại Pension des Etats Unis do Cao Văn Bổn quản lý, và ở đó một năm tròn, trước khi ông Tân nhậm chức làm giám đốc Vườn Thử Nghiệm Thực Vật Kindia ở thị trấn Kindia, nước Guinée châu Phi.

Trong suốt thời gian từ khi sang Pháp đến Guinée, Lê Thị Lựu gần như không dành thời gian cho hội họa do phải chăm sóc con và thiếu dụng cụ. Tuy nhiên, bà vẫn đã vẽ mười bức hình cô gái đồng trinh bản xứ, được đặt để trang trí phòng khách ở Kindia bởi tòa sứ Pháp. Nhiều lần, bà được giám đốc trường thủ công nghệ ở thị trấn mời làm giáo sư, nhưng bà luôn từ chối.

Vào năm 1943, Lê Thị Lựu đã tạo ra bức tranh “Chân dung người Guinée”, vẽ bằng bút chì trên giấy kraft, một tác phẩm đặc biệt trong sự nghiệp của bà.

Lê Thị Lựu (trong bộ đồ đen ngồi ghế bên trái, cạnh Hồ Chí Minh) tại Hội nghị Fontainebleau năm 1946

 

Năm 1945, sau khi chiến tranh kết thúc, Lê Thị Lựu trở về Paris và ở tạm tại xưởng vẽ với Mai Thứ trong một thời gian.
Đến năm 1947, bà đã chuyển đến số 41 phố rue Blomet, quận 15, làm hàng xóm của Lê Phổ; đây là ngôi nhà trước đây thuộc về giáo sư Trần Hữu Tước khi ông trở về nước.
Trong kỳ nghỉ hè năm 1946 ở Chedde, tỉnh Haute–Savoie cùng chồng, bà đã nhận biết về tình hình quê nhà, khi các phong trào cách mạng chống thực dân giành độc lập trở nên sôi động và lan rộng đến Paris, nơi đang diễn ra Hội nghị Fontainebleau. Điều này khiến bà cảm thấy cần phải lấy tin tức cũng như gặp người quen trong phái đoàn Việt Nam do Phạm Văn Đồng làm trưởng. Từ sự kiện này, vợ chồng bà Lựu quyết định ủng hộ phong trào: ông Tân nghỉ làm công chức cho chính quyền Pháp và sau đó cùng vợ mở một hiệu buôn nhỏ để kiếm sống.

 

 

Lê_Thị_Lựu_in_Paris_1947
Lê Thị Lựu vào năm 1947

 

Sau khi ổn định cuộc sống, Lê Thị Lựu tích cực tham gia vào phong trào chống thực dân bằng cách liên lạc với đại diện chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Trần Ngọc Danh, cũng như các đại diện Hội người Việt tại Pháp như Phạm Huy Thông, Nguyễn Khắc Viện.
Trong thời gian này, Ngô Thế Tân giữ chức Phó Chủ tịch Hội người Việt sống tại Pháp và Lê Thị Lựu giữ chức thủ quỹ của Hội Liên hiệp Trí thức (thuộc Hội người Việt). Bà cũng gửi các bức tranh của mình cho phái đoàn Quốc hội Việt Nam theo yêu cầu từ Ủy ban tổ chức Triển lãm để đóng góp cho triển lãm tranh đầu tiên của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào năm 1946. Bà cũng thiết kế mẫu tem cho chính phủ Việt Nam lâm thời.
Bà tham dự các buổi họp của Phong trào Hòa bình Thế giới cả tại Pháp và ở nước ngoài, mặc dù bị chính quyền đặt vào “sổ đen” và liên tục bị truy vấn bởi cảnh sát, mật vụ, và những người khác.
Tới năm 1960, khi thấy chính phủ miền Bắc Việt Nam chuẩn bị tiến công vào miền Nam bằng vũ trang, bà Lựu cùng ông Tân quyết định rút lui khỏi hoạt động của các nhóm hội này.

Năm 1953, gia đình bà dọn về ở số 10 ngõ Joséphine, thị xã Gentilly, ngoại ô phía Nam Paris.Từ năm 1954, sau Hiệp định Genève, Lê Thị Lựu bắt đầu trở lại với hội họa. Sau đó, ông đã được đề bạt thăng tiến lên làm cho Bộ Ngoại thương và đến năm 1956 thì nhận công tác về Việt Nam. Khi chồng đi làm xa, Lê Thị Lựu quyết tâm bỏ hẳn việc buôn bán chuyển sang hoạt động hội họa.
Để quen với môi trường mỹ thuật, hàng ngày bà đều đến bảo tàng, phòng triển lãm cộng đồng, cá nhân và các cửa hàng tranh trong thành phố. Lựu cũng thường đến phòng vẽ La Chaumière để ký họa với mẫu khỏa thân bằng bút chì và theo học tại École du Louvre, nhưng sau bỏ dở vì nhận thấy chương trình học không phù hợp với bản thân.

Trong quãng thời gian này, Lê Thị Lựu lại trở nên do dự trước vô vàn các trường phái và khuynh hướng mới ra đời nhưng xa vời với lối vẽ cùng quan niệm của bà. Sau khi suy nghĩ kĩ, bà quyết định đi theo con đường sáng tạo dựa trên những quan niệm hội họa do chính bà đặt ra và hoàn toàn theo đuổi nghệ thuật tranh lụa.
Việc trở lại làm họa sĩ vào năm 1957, Lê Thị Lựu bắt đầu thường xuyên đem tranh đến phòng trưng bày Chapelin cạnh Điện Elysée.

Năm 1959, ba bức lụa nhỏ bà sáng tác cùng được trưng bày ở trung tâm phòng triển lãm Hội liên hiệp phụ nữ hội họa và điêu khắc (Union des femmes peintres et sculpteurs).
Ngay trong buổi khai mạc ấy, đã có hai người Mỹ đã mua hai bức tranh của bà, những bức còn lại thì do bà chủ phòng tranh Chapelin nhận. Cả ba tác phẩm trên sau đó đem về cho Lê Thị Lựu giải nhất và bà được phong làm thành viên thực thụ (Sociétaire) của hội vì vậy nên tranh của bà khi trưng bày sẽ không cần phải qua sự giám sát, kiểm định

1960–1988: Thời kỳ tranh lụa “toàn bích”, những tác phẩm cuối cùng

Sau một thời gian thử nghiệm và theo đuổi nghệ thuật tranh lụa, từ năm 1960, Lê Thị Lựu đã hoàn thiện phong cách tranh lụa của riêng mình và tạo ra nhiều tác phẩm được đánh giá cao là “toàn bích”. Trong giai đoạn này, một trong những bức vẽ thành công nhất của Lê Thị Lựu là “Mẹ địu con”, hoàn thành khoảng năm 1970-1975, đã được in thành nhiều phiên bản để bán với mục đích từ thiện.

Năm 1962, Lê Thị Lựu được bổ nhiệm làm giáo sư hội họa tại trường Lycée Corot; một năm sau đó, vào năm 1963, bà tiếp tục giảng ở vùng ngoại ô Paris dạy tại hai trường Lycée Rodin Paris và Lycée d’Orsay.
Vào ngày 4 tháng 12 năm 1963, Lê Thị Lựu tham gia một buổi triển lãm tranh cùng với các họa sĩ khác tại trung tâm Foyer des Artistes trên đại lộ Montparnasse. Đến năm 1971, sau khi cùng chồng nghỉ hưu, gia đình bà chuyển về sống tại biệt thự An Trang, trên đường Renaude, tại làng Spéracèdes, ở miền Nam nước Pháp, ở vùng Địa Trung Hải.
Trong những năm cuối đời, bà đã hoàn thành nhiều tác phẩm lớn và để lại dấu ấn trong sự nghiệp của mình. Bức tranh “Kim Kiều gặp gỡ” là một trong những kiệt tác mà bà đã tạo ra trong thời gian lâu nhất, bắt đầu từ năm 1975, nhưng đến thập kỷ 1980 vẫn chưa được hoàn thiện, thỉnh thoảng chỉnh sửa lại nhưng vẫn không hài lòng.
Họa phẩm khác cùng chủ đề “Kiều gảy đàn tỳ bà”, được sáng tác vào khoảng năm 1987, cũng được coi là nổi bật trong giai đoạn này. Tác phẩm cuối cùng của Lê Thị Lựu trước khi bà qua đời là bức “Tam đại đồng đường”, hoàn thiện vào năm 1988.

Các Tác Phẩm Nổi Bật Của Lê Thị Lựu

Lê Thị Lựu, tác phẩm The Maternity Hospital (bệnh viện phụ sản), vẽ tranh trên lụa, kích thước 54x44,5 cm. (1)
Lê Thị Lựu, tác phẩm Mè re et E nfant (Mẹ và Con), sáng tác khoảng năm 1960, vẽ mực và bột màu trên lụa, kích thước 63 x 49 cm. Trong phiên Contemporary Art (Morning Session)​ ngày 26 tháng 05 năm 2019 tại Christie Hồng Kông. Thành giá: 1.625.000 HKD tương đương 4,9 tỷ VND.

 

Lê Thị Lựu, tác phẩm La Confidence (Tâm sự của phụ nữ) , vẽ khoảng năm 1938, vẽ mực và bột màu trên lụa, kích thước 41,5 x 33 cm. (1)
Lê Thị Lựu, tác phẩm La Confidence (Tâm sự của phụ nữ) , vẽ khoảng năm 1938, vẽ mực và bột màu trên lụa, kích thước 41,5 x 33 cm. Trong phiên Contemporary Art Morning Session tại Christie Hồng Kông, Ngày 24 tháng 11 năm 2019. Thành giá: 2.500.000 HKD tương đương 7,5 tỷ VND.
Lê Thị Lựu, tác phẩm Mère allaitant dans un intérieur (Mẹ và em bé), vẽ tại Paris khoảng năm 1962, kích thước 41 x 33 cm.
Lê Thị Lựu, tác phẩm Mère allaitant dans un intérieur (Mẹ và em bé), vẽ tại Paris khoảng năm 1962, kích thước 41 x 33 cm. Trong phiên PAINTERS OF ASIA MAJOR WORKS – Họa sĩ Châu Á các tác phẩm quan trọng tại Aguttes, ngày 14 tháng 03 năm 2022. Thành giá: 405.540 EUR tương đương 10,6 tỷ VND.
Tranh lụa Sơn nữ (1980) là một trong những tác phẩm thành công nhất của Lê Thị Lựu (1)
Tranh lụa Sơn nữ (1980) là một trong những tác phẩm thành công nhất của Lê Thị Lựu. Trong tác phẩm này, bà tung hoành màu sắc, tự do gần như tuyệt đối
Tranh lụa Ba mẹ con goá phụ (1954) lưu lại dấu ấn của thời kỳ Lê Thị Lựu chịu ảnh hưởng của Modigliani
Tranh lụa Ba mẹ con goá phụ (1954) lưu lại dấu ấn của thời kỳ Lê Thị Lựu chịu ảnh hưởng của Modigliani